quy trình gây tê tủy sống mổ lấy thai

Gây tê quá liều? Người Đưa Tin Pháp luật nhận được phản ánh của bà Lê Thị Như Hải về việc bị liệt hai chân sau khi sinh mổ. Kể lại sự việc, bà Hải cho biết, khoảng 7h ngày 10/1/2019 bà làm thủ tục nhập viện tại bệnh viện Mê Kông để sinh con. Đến 14h cùng ngày Gây tê tủy sống hiện là phương pháp vô cảm phổ biến trong mổ lấy thai. Hạ huyết áp ở mẹ là biến chứng thường gặp sau tê tủy sống gây ra hậu quả bất lợi cho mẹ và thai. Phòng ngừa và điều trị hạ huyết áp sau tê tủy sống vẫn liên tục được nghiên cứu. 2. Biến chứng gây tê tủy sống. 2.1. Quá trình sinh mổ (Nguồn: Sưu tầm) Nếu mẹ cảm thấy tê ngoài màng cứng hoặc tủy sống sau sinh mổ, bác sĩ chuyên khoa sẽ tiêm morphine hoặc một vài loại thuốc khác để giảm cơn đau của mẹ đến 24 giờ sau. Mặc dù mổ lấy thai không gây tổn hại đến tầng sinh môn Hủy Hợp Đồng Vay Tiền Online. Liệu có nguy hiểm nào có thể xảy ra hay không? Các biến chứng có thể xảy ra bao gồm Suy tuỷ sống; Ngứa; Tiểu khó; Hạ huyết áp; Đau đầu; Đau lưng; Tổn thương thần kinh; Xuất hiện cục máu đông; Cảm thấy buồn nôn và nôn; Đau họng; Đau lưng và đau cơ; Tổn thương răng; Khó thở; Bạn vẫn còn tỉnh trong quá trình gây mê bình thường khi gây mê toàn thân bạn sẽ ngủ sâu và không nhận thức được mọi việc xung quanh. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về các biến chứng có thể xảy ra, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn và giải đáp. Quy trình thực hiện Bạn nên làm gì trước khi thực hiện gây tê/gây mê khi sinh mổ? Khi xác định được bạn không thể sinh bằng đường tự nhiên, bác sĩ sẽ đề nghị mổ và sẽ giải thích rõ ràng lý do tại sao nên thực hiện thủ thuật gây tê này và những tác dụng phụ có thể xảy ra. Nếu có thắc mắc, bạn nên hỏi kỹ bác sĩ. Quy trình thực hiện gây tê/gây mê khi sinh mổ là gì? Quy trình thực hiện gây tê tủy sống khi sinh mổ bao gồm Đầu tiên bác sĩ sẽ tiêm thuốc tê tại chỗ và thuốc giảm đau vào một khu vực được gọi là khoang dưới nhện, gần tủy sống của bạn. Thủ thuật này gây tê thần kinh của bạn để giảm đau tại một số khu vực nhất định của cơ thể bạn; Sau đó, bác sĩ gây mê của bạn sẽ đưa một cây kim vào khu vực tủy sống, tiêm thuốc gây mê thông qua kim tiêm và sau đó rút kim tiêm ra. Thủ thuật này không đau, bạn chỉ cảm thấy hơi nhói một chút trong quá trình thực hiện. Trong lúc sinh theo đường tự nhiên, nếu bạn đang sử dụng thủ thuật gây tê tủy sống và bạn cần phải chuyển qua sinh mổ, bác sĩ gây mê có thể cho thêm một liều thuốc gây mê để giúp bạn bớt cảm giác đau. Một kỹ thuật khác là đặt một ống nhỏ vào khoang ngoài màng cứng cùng với đưa kim vào để gây tê tuỷ sống được gọi là gây tê kết hợp tuỷ sống – màng cứng. Gây mê toàn thân là thủ thuật dùng các thuốc gây ngủ sâu. Sau khi tỉnh lại bạn sẽ không nhớ bất cứ điều gì đã xảy ra lúc đang ngủ. Thông thường bác sĩ sẽ thực hiện gây mê bằng cách tiêm thuốc gây mê nhỏ giọt vào tĩnh mạch. Mất khoảng 30 giây để thuốc có tác dụng. Bác sĩ sẽ giữ bạn trong trạng thái ngủ này bằng cách cho hít các chất khí gây mê. Bác sĩ gây mê của bạn liên tục theo dõi số lượng thuốc gây mê trong cơ thể của bạn để chắc chắn rằng bạn vẫn đang ngủ sâu và không cảm thấy đau đớn. Đôi khi, bạn có thể cảm giác được có ai đó đang kéo và đẩy những cơ quan trong bụng của bạn. Bạn cũng có thể cảm thấy khó thở vì các dây thần kinh cảm giác xung quanh ngực của bạn sẽ bị tê liệt. Sau khi sinh, bạn có thể cảm giác nặng nề hay áp lực trong lồng ngực của bạn Hồi phục sức khỏe Bạn nên làm gì sau khi thực hiện gây tê/gây mê khi sinh mổ? Bác sĩ gây mê hồi sức sẽ theo dõi bạn chặt chẽ. Bạn sẽ tỉnh lại sau khi phẫu thuật đã hoàn thành và thuốc gây mê hết tác dụng. Bạn có thể trở về nhà trong vòng 2-4 ngày sau khi phẫu thuật. Bạn nên ngồi dậy và vận động sớm bằng cách ra khỏi giường và đi bộ xung quanh trong thời gian sớm nhất có thể. Nữ hộ sinh hoặc kỹ thuật viên vật lý trị liệu sẽ cung cấp cho bạn lời khuyên về các bài tập sau khi sinh để giúp bạn hồi phục nhanh chóng. Bạn có thể lái xe ngay khi bạn bắt đầu có thể đi lại mà không cảm thấy đau và có thể thắng xe được. Bạn có thể lái xe sau khoảng 6 tuần hoặc sớm hơn. Nếu bạn có bất cứ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn và giải đáp. Hello Health Group không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Nguyễn Đức Thông - Bác sĩ Gây mê hồi sức - Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. So với gây mê thì gây tê là biện pháp giảm đau khi sinh mang lại nhiều ưu điểm , gây tê tủy sống là kỹ thuật giảm đau được thực hiện trước khi tiến hành mổ lấy thai nhằm giúp sản phụ vượt cạn dễ dàng, không cảm thấy đau đớn. Trong bài viết này, đưa ra một số đánh giá cập nhật hiện nay về phòng ngừa và xử trí hạ huyết áp sau tê tủy sống mổ lấy thai. Gây tê tủy sống hiện là phương pháp vô cảm phổ biến trong mổ lấy thai. Hạ huyết áp ở mẹ là biến chứng thường gặp sau tê tủy sống gây ra hậu quả bất lợi cho mẹ và thai. Phòng ngừa và điều trị hạ huyết áp sau tê tủy sống vẫn liên tục được nghiên cứu. 2. Biến chứng gây tê tủy sống Biến chứng về thần kinhLiệt, tổn thương thần kinh Đây là biến chứng rất hiếm gặp. Có nhiều nguyên nhân gây ra tổn thương thần kinh sau gây tê như do kim gây tê/catheter, do chèn ép, máu tụ ngoài màng cứng, thiếu máu nuôi thần kinh, hay độc tính của thuốc tê lên dây thần kinh. Thông thường bên cạnh mất cảm giác đau người bệnh cũng sẽ liệt vận động vùng được gây tê. Tuy nhiên, vận động và cảm giác sẽ hồi phục sau khi hết tác dụng của thuốc tê khoảng 4 – 6 giờ. Nếu các triệu chứng này kéo dài cần báo ngay cho nhân viên y chứng chùm đuôi ngựa Thường có triệu chứng đau thắt lưng, tê quanh hậu môn và tiêu tiểu mất tự đầu Đây là triệu chứng thường gặp sau gây tê tủy sống, thông thường triệu chứng sẽ tự khỏi trong vòng 7 ngày. Nếu triệu chứng gây khó chịu đáng kể có thể sử dụng các thuốc giảm đau. Trong trường hợp đau đầu không tự khỏi trong 7 ngày hoặc đau đầu dữ dội, cần đến ngay các cơ sở y tế để được hỗ trợ. Để ngăn ngừa đau đầu sau tê tủy sống, người bệnh cần nằm yên nghỉ ngơi trên giường trong 24 giờ sau gây tê và không ngóc đầu dậy. Hội chứng chùm đuôi ngựa là biến chứng về thần kinh có thể gặp sau khi gây tê tủy sống Biến chứng về tim mạchHạ huyết áp hạ huyết áp sau gây tê tủy sống là triệu chứng thường gặp khi gây tê tủy sống, triệu chứng thường gặp đầu tiên là buồn nôn, nôn. Khi cảm thấy dấu hiệu này cần báo ngay cho nhân viên y tế tim chậm Tùy thuộc vào mức độ, người bệnh sẽ được xử trí bằng các thuốc thích Biến chứng về hô hấpKhó thở và ngừng thở là biến chứng có thể gặp khi gây tê. Người bệnh sẽ được thở oxy trước, trong, sau thủ thuật và các biện pháp hỗ trợ hô hấp khác nếu Nhiễm trùngTiêm thuốc tê vào cột sống có thể gây viêm màng não mủ hay áp xe ngoài màng cứng. Tuy nhiên, biến chứng này hầu như không xảy ra do được phòng ngừa rất tốt bằng các biện pháp vô trùng trong lúc thực hiện thủ Đau lưngSau khi thực hiện gây tê trục thần kinh trung ương, một số người bệnh cảm thấy đau lưng ở vị trí chích kim. Triệu chứng này có thể cải thiện bằng cách sử dụng kim nhỏ nhất có thể chọn kim 29G, tránh chọc kim nhiều lần bằng cách siêu âm xác định khe đốt sống trước khi gây tê, có thể sử dụng các thuốc giảm Bí tiểuThuốc tê có thể ức chế các rễ thần kinh điều hòa hoạt động bài tiết nước tiểu. Do đó, người bệnh thường cảm thấy bí tiểu sau mổ. Triệu chứng này có thể giải quyết bằng cách mát xa vùng bụng dưới, chườm nóng vùng bóng đái; nếu không thể tiểu được thì đặt thông tiểu ống dẫn nước tiểu để tháo nước tiểu ra. Sau khi hết tác dụng của thuốc tê, bí tiểu có thể cải NgứaCó thể gặp sau gây tê tủy sống nếu bác sĩ pha thêm thuốc giảm đau họ morphin vào thuốc tê để làm tăng thời gian tác dụng. Dấu hiệu này thường tự cải thiện. Tình trạng bí tiểu thường gặp sau khi mổ lấy thai 3. Xử trí và phòng tránh Truyền DịchMặc dù sử dụng phác đồ truyền dịch được xem như một phương pháp cổ điển trong thực hành gây tê sản khoa, nhưng những bằng chứng gần đây đã đặt nghi vấn cho giá trị này. Một số tác giả đã báo cáo rằng gây tê tủy sống trong dân số sản khoa đi kèm tăng hơn là giảm cung lượng tim. Sự phát hiện này làm cho truyền dịch để phòng ngừa hạ huyết áp sau tê tủy sống không như là giả thuyết. Hơn thế nữa, việc truyền dịch ở sản phụ được báo cáo là phá vỡ glycocalyx. Glycocalyx là một lớp giàu carbohydrate lót trong nội mô đóng vai trò duy trì tính nguyên vẹn của nội mô. Sự phá hủy glycocalyx nội mô được báo cáo là nguyên nhân gây ra thất bại để truyền dịch phòng ngừa hạ huyết áp sau tê tủy sốngTruyền dịch trước mặc dù truyền dịch tinh thể trước hơn hẳn chế độ không truyền, nhưng tỉ lệ hạ huyết áp với tất cả chế độ truyền dịch trước vẫn cao. Theo đánh giá mới nhất từ cơ sở dữ liệu Cochrane, truyền trước dung dịch keo tốt hơn so với truyền dịch tinh thể ; tuy nhiên , các nghiên cứu có kiểm soát ngẫu nhiên so sánh dung dịch keo và dịch tinh thể truyền trước cho thấy bằng chứng mâu thuẫn dịch cùng lúc giải thích hiện được chấp nhận nhất cho giá trị giới hạn dịch truyền trước là phân bố nhanh dịch trong khoang ngoài mạch. Đây là nguyên nhân của sự phát triển quan niệm truyền dịch cùng lúc mà dịch được cho truyền nhanh đồng thời với tê tủy truyền dịch nhanh cùng lúc, sự tái phân bố dịch có thể hạn chế bởi dãn mạch đồng hết các báo cáo cho thấy truyền dịch cùng lúc hơn hẳn hoặc ít nhất giống như truyền dịch trước khi so sánh hai protocol cùng dùng chung một loại dịch. Dịch tinh thể truyền cùng lúc hơn hẳn dịch tinh thể truyền trước và tương đương dịch keo truyền trước. Dịch keo truyền cùng lúc không hơn dịch keo truyền so sánh các loại dịch khác nhau, dịch tinh thể truyền cùng lúc tương tự dịch keo truyền cùng lúc. Tuy vậy, thể tích dịch cần thiết với dịch keo ít hơn thể tích dịch tinh thể. Thuốc co mạch có thể làm giảm hạ huyết áp sau tê tủy hơn truyền dịch Sử dụng thuốc co mạchLựa chọn thuốc co mạch Sử dụng thuốc co mạch được chấp nhận rộng rãi và là phương pháp có hiệu quả để giảm hạ huyết áp sau tê tủy hơn truyền dịch. Phenylephrine là thuốc co mạch thích hợp trong phòng và điều trị bởi vì khởi tác dụng nhanh, thai nhi ít bị nhiễm toan, ít qua nhau, ít nôn và buồn nôn ở mẹ mặc dù có tỉ lệ hạ huyết áp tương tự sau gây tê tủy. Norepinephrine gần đây được nghiên cứu như là một sự thay thế cho Phenylephrine do ít ức chế tim mạch với kết quả đầy triển vọng; tuy nhiên cần nhiều nghiên cứu thêm để bảo đảm đạt được liều tối ưu. Ngoài các đặc tính chống nôn, ondansetron được báo cáo là thuốc dự phòng từ hạ huyết áp sau tê tủy với tác dụng phụ tối thiểu. Mặc dù ít được khuyến cáo hơn, ephedrine vẫn có vai trò trong một số trường hợpNhịp tim chậm Nhịp tim chậm ban đầu hay hạ huyết áp sau gây tê tủy liên quan đến nhịp tim chậm Tác dụng xấu của phenylephrine lên cung lượng tim của mẹ làm cho ephedrine là thuốc được lựa chọn trong trường hợp liên quan đến nhịp tim chậmBệnh nhân với tổn thương chức năng tim Mặc dù không có nghiên cứu so sánh cả hai thuốc trong dân số này, nhưng tác dụng xấu của phenylephrine trên cung lượng tim vẫn được cân nhắc giới hạn sử dụng thuốc trên những bệnh nhân nàySuy giảm chức năng tử cung bánh nhau Phenylephrine làm giảm cung lượng tim của mẹ và tăng sức cản mạch máu ngoại vi, và do đó giảm tưới máu tử cung nhau. Chỉ có một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát ngẫu nhiên được tiến hành trên những sản phụ có thai suy , không có sự khác biệt giữa ephedrine và phenylephrine đối với điểm số Apgar và pH máu cuống rốn. Trước mổ lấy thai cho sản phụ nằm nghiêng trái có thể giúp giảm chèn ép động mạch chủ Tư thế sản phụCho sản phụ nằm nghiêng trái hoặc kê 1 gối ở hông phải giúp giảm chèn ép động mạch chủ bụng, nhằm hạn chế tụt huyết lớn tư thế có một trong hai mục tiêu như sauGiảm chèn ép động mạch chủTăng lượng máu tĩnh mạch quay vềBệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện áp dụng nghiêm ngặt các tiêu chuẩn thực hành gây mê phẫu thuật an toàn theo các hướng dẫn quốc tế. Với một đội ngũ bác sĩ và điều dưỡng gây mê giàu kinh nghiệm, cùng với các trang thiết bị hiện đại như máy dò thần kinh, máy siêu âm, hệ thống kiểm soát đường thở khó của Karl Storz, hệ thống theo dõi gây mê toàn diện AoA Adequate of Anesthesia của GE bao gồm theo dõi độ mê, độ đau và độ giãn cơ sẽ mang lại chất lượng cao và an toàn, giúp bệnh nhân gây mê vừa đủ, không thức tỉnh, không tồn dư thuốc giãn cơ sau mổ. Hệ thống Y tế Vinmec cũng tự hào là bệnh viện đầu tiên tại Việt Nam ký kết với Hiệp hội Gây mê Thế giới WFSA hướng đến mục tiêu trở thành bệnh viện an toàn nhất về gây mê phẫu tại Đông Nam có nhu cầu tư vấn và thăm khám tại các Bệnh viện Vinmec thuộc hệ thống Y tế trên toàn quốc, Quý khách vui lòng đặt lịch trên website để được phục vụ. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Một số biến chứng, tác dụng phụ của gây tê tủy sống trong phẫu thuật Gây tê tủy sống trong phẫu thuật Chỉ định và chống chỉ định Nguyên nhân gây đau đầu sau gây tê tủy sống Tác giả Tạ Quang Hùng - Bác sĩ Gây mê hồi sức, Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng Mổ lấy thai là phẫu thuật được thực hiện nhiều nhất trong lĩnh vực sản phụ khoa ở tất cả các bệnh viện từ quận huyện đến tỉnh thành phố, bệnh viện trung ương. Đau sau mổ lấy thai ảnh hưởng đến việc vận động sớm và chăm sóc sơ sinh của sản phụ và có nguy cơ biến thành đau mạn tính. Mục tiêu Nhận xét tác dụng giảm đau sau mổ lấy thai và các tác dụng không mông muốn của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng hai tượng và phương pháp nghiên cứu 40 bệnh nhân có chỉ định mổ lấy thai bằng phương pháp gây tê tủy sống. Sau khi kết thúc mổ, bệnh nhân được theo dõi tại phòng hồi tỉnh. Khi bệnh nhân đau, điểm đau VAS vận động ≥ 4, tiến hành gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên, sau đó bệnh nhân được theo dõi trong 24h tại các thời điểm trước khi gây tê, sau gây tê 15 phút, 1h, 6h, 12h, 24h. Trong 24h nếu bệnh nhân đau thì truyền tĩnh mạch perfalgan 1g và voltarel 100mg đặt hậu môn. Ngày tiếp theo cho uống efferalgan 500mg 4 lần/ngày và voltarel 100mg đặt hậu môn khi VAS ≥ quả Thời gian giảm đau sau mổ lấy thai của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng là 21,57 ± 5,07 giờ, tỷ lệ rất hài lòng và hài lòng của bệnh nhân là 57,5% và 42,5%. Phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên không ảnh hưởng đến mạch, huyết áp, SpO2 của bệnh nhân và không ghi nhận các tác dụng không mong luận Phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên là phương pháp gây tê có thể áp dụng để giảm đau sau mổ lấy thai và đem lại sự hài lòng của người bệnh. Thời gian giảm đau sau mổ lấy thai là 21,57 ± 5,07 giờ. Không có tác dụng phụ nào của phương pháp được ghi nhận. Đặt vấn đề Có nhiều phương pháp giảm đau sau mổ lấy thai, trong đó phối hợp morphin với các thuốc tê để gây tê tủy sống, có thể kéo dài thời gian giảm đau sau mổ. Tuy nhiên, phương pháp này có nhiều tác dụng phụ gây phiền hà cho bệnh nhân buồn nôn, nôn, ngứa...15,16Để giảm các tác dụng phụ của các thuốc giảm đau họ morphin, chiến lược giảm đau đa mô thức với vai trò của gây tê vùng dưới hướng dẫn của siêu âm đã được nghiên cứu triển khai, vừa giảm đau sau mổ tốt, vừa giảm mức độ tiêu thụ của các thuốc giảm đau họ morphin, giảm khó chịu cho người bệnh 6,11Phương pháp gây tê vùng được nghiên cứu đầu tiên để giảm đau sau mổ lấy thai trong chiến lược giảm đau đa mô thức là phương pháp gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng TAP block, phương pháp này được McDonnell miêu tả năm 200812. Tuy nhiên TAP block cho thấy có nhiều hạn chế do thời gian giảm đau ngắn, chỉ giảm đau chủ yếu ở thành bụng2,9,10.Một tiếp cận mới, an toàn trong giảm đau sau mổ lấy thai là gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm được Blanco mô tả đầu tiên vào 20073. So với gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng, gây tê cơ vuông thắt lưng được cho là có tác dụng giảm đau tốt và dài hơn. Có 2 giả thuyết giải thích cho điều này, thứ nhất là gây tê cơ vuông thắt lưng làm cho thuốc tê dễ lan vào khoang cạnh sống, bên cạnh đó thuốc còn lan đến một mạng lưới thần kinh giao cảm bên trong cân ngực-lưng làm bền vững tác dụng giảm đau của thuốc tê5,4.Phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng có ít tác dụng phụ, những bệnh nhân được gây tê cơ vuông thắt lưng có mức độ đau ít ở cả lúc nghĩ ngơi và lúc vận động, điều này rất quan trọng để tập phục hồi chức năng sớm sau phẫu thuật nhằm phòng ngừa biến chứng thuyên tắc tĩnh mạch sâu và huyết khối sau mổ1,8.Gây tê cơ vuông thắt lưng là kỹ thuật an toàn, đã được nghiên cứu áp dụng để giảm đau sau mổ mổ lấy thai. Tuy nhiên, ở Việt nam chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá tác dụng, cũng như áp dụng kỹ thuật này để giảm đau trong mổ lấy thai. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục đích “Nhận xét tác dụng giảm đau sau mổ lấy thai và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên”. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân được chỉ định gây tê tủy sống để mổ lấy thai tại bệnh viện ĐKQT Vinmec Đà Nẵng từ tháng 3/2019 đến tháng 5/ chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân đồng ý thực hiện các kỹ thuật để mổ lấy thai và gây tê giảm đau sau mổ. Không có chống chỉ định dùng các thuốc dùng trong nghiên cứu. Bệnh nhân có ASA I-II theo phân độ sức khỏe của Hiệp hội Gây mê Hoa chuẩn loại trừ Mổ lấy thai vô cảm bằng phương pháp gây mê toàn diện hoặc phải thay đổi phương pháp vô cảm trong mổ. Bệnh nhân có tiền sử bệnh lý thần kinh, tiền sử đau mạn tính. Bệnh nhân dị ứng với các thuốc dùng trong nghiên pháp nghiên cứu* Thiết kế nghiên cứuNghiên cứu mô tả, phân pháp chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện, phù hợp tiêu chuẩn chọn bệnh, trong thời gian tiến hành nghiên điểm nghiên cứu Tiến hành nghiên cứu tại khoa Ngoại tổng hợp và khoa Sản Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Thời gian nghiên cứu từ tháng 3/2019 đến tháng 5/2019.* Các chỉ tiêu nghiên cứu Tuổi, chiều cao, cân nặng, ASA, thời gian phẫu thuật, huyết áp động mạch trung bình HAĐMTB, tần số tim, SpO2, thời gian giảm đau trung bình của nhóm nghiên cứu, thang điểm VAS khi nghỉ ngơi và khi vận động tại các thời điểm nghiên cứu, mức độ hài lòng của người bệnh, các tác dụng không mong muốn buồn nôn, nôn,run, ngứa, vị đắng kim loại ở miệng, khó thở...* Thời điểm nghiên cứu Trước khi gây tê T0, sau khi gây tê 15 phút T1, sau gây tê 1h T2, sau gây tê 6h T3, sau gây tê 12h T4, sau gây tê 24h T5. Cách tiến hành* Chuẩn bị bệnh nhânBệnh nhân khám gây mê trước mổ, đánh giá toàn trạng bệnh nhân, cận lâm sàng và giải thích quá trình thực hiện các phương pháp vô cảm và giảm đau sau mổ cho bệnh nhân hiểu rõ. Tại phòng mổ Định danh bệnh nhân, giải thích lại về quy trình thực hiện phương pháp vô cảm và giảm đau sau mổ cho bệnh nhân.* Chuẩn bị phương tiện dụng cụKim gây tê tủy sống 27 bút chì hoặc kim 29GKim gây tê thần kinh ngoại vi Stimuplex A của hãng B-Braun, máy siêu âm VividTMiq của hãng GEThuốc gây tê bupivacain 0,5%, levobupivacain 0,5%, fentanyl, cấp cứu atropin, ephedrin, phenylephrin, adrenalin, noradrenalin, lipid emulsion 20%.Thuốc gây mê propofol, suxamethonium, sevofluran, theo dõi, máy gây mê, máy GTTS, bộ gây tê thần kinh ngoại vi, găng phẫu thuật vô khuẩn, gạc vô khuẩn, betadine 10%, băng dính, nội khí quản cấp cứu Mask mặt, đèn đặt NKQ, lưỡi đèn, ống NKQ, phụ được siêu âm cột sống đánh dấu xác định vị trí khe đốt sống thắt lưng tại khu tiếp đón hoặc trong phòng mổ.*Tiến hànhTại phòng mổ Chuẩn bị và tiến hành gây tê tủy sống để mổ lấy thai thường quy theo quy trình và phác đồ của bệnh phòng hồi tỉnh Sau khi kết thúc cuộc mổ, chuyển bệnh nhân ra phòng hồi tỉnh tiếp tục theo dõi Nhịp tim, HA, SpO2, nhịp thở, điểm đau VAS. Khi điểm đau VAS khi vận động ≥ 4, tiến hành là kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên. Tiêm levobupivacain 0,5% liều 1,5mg/kg phối hợp dexamethason 2mg cho 1 bên. Liều tối đa cho 1 bên levobupivacain 0,5% là bệnh nhân nằm nghiêng bên trái, bác sĩ gây mê rửa tay thường quy bằng cồn, đi găng vô khuẩn. Bọc đầu dò convex của máy siêu âm VividTMiq của hãng GE vô khuẩn, sát trùng vùng gây tê bằng betadin 10%. Đặt đầu dò phía trên mào chậu xác định vị trí cơ vuông thắt lưng. Chọc kim đi trong mặt phẳng cắt in-plane theo hướng dẫn của siêu âm tới phía sau bên cơ vuông thắt lưng QL2, đảm bảo nhìn rõ toàn bộ kim gây tê trên màn hình máy siêu âm, bơm thử bóc tách cân cơ vuông thắt lưng bằng dung dịch natriclorid 0,9%, sau đó bơm thuốc tê với 5ml/lần kèm hút bơm tiêm kiểm tra xem có máu hay không. Kết thúc kỹ thuật dán băng dính urgo vị trí bệnh nhân nghiêng phải và thực hiện kỹ thuật giống như đặt bệnh nhân nghiêng dõi sau gây tê Nhịp tim, nhịp thở, HA bệnh nhân sau khi gây tê tại các thời điểm nghiên bệnh nhân đau, điểm VAS ≥ 4 thì cho thêm các thuốc giảm đau perfalgan 1g truyền tĩnh mạch trong vòng 15 phút và voltarel 100mg đặt hậu môn. Các ngày tiếp theo dùng efferalgan 500mg uống 4lần/ngày và voltarel 100mg đặt hậu môn khi điểm đau VAS ≥ 4* Xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng các thuật toán thống kê y học. Kết quả Bảng 1 Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Số liệu trình bày Trung bình ± độ lệch chuẩn, số bệnh nhân phần trămBảng 2 Thời gian giảm đau sau mổ, mức độ hài lòng của người bệnh, tác dụng không mong muốn của phương pháp Biểu đồ 1 Ảnh hưởng của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng lên nhịp tim, huyết áp, SpO2 Biểu đồ 2 Giá trị của điểm đau VAS nghỉ ngơi và VAS vận động tại các thời điểm nghiên cứu Bàn Luận Đặc điểm chung nhóm nghiên cứuTuổi trung bình trong nhóm nghiên cứu là 31,48 ± 3,78 tuổi, tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên13 và cộng sự tuổi trung bình 29,5 ± 4,97 tuổi. Chiều cao trung bình trong nhóm nghiên cứu là 154,95 ± 3,73 cm tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên13 và Nguyễn Thế Tùng14. Cân nặng trung bình trong nghiên cứu là 50,35 ± 4,63 kg. Trong nghiên cứu này chúng tôi lấy cân nặng trước khi mang thai để xác định lượng thuốc cần gây tê cơ vuông thắt lưng nên có sự khác biệt với các tác giả sử dụng cân nặng lúc mang thai trong các nghiên cứu về các phương pháp vô cảm trên mổ lấy thai Nguyễn Trung Kiên13, Nguyễn Thế Tùng14. Thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu là 40,88 ± 6,19 phút, tương tự trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Trung Kiên9 là 41,3 ± 11,15 gian giảm đau sau mổ, thuốc giảm đau dùng phối hợp sau mổThời gian giảm đau sau mổ của nhóm nghiên cứu là 21,57 ± 5,07 giờ. Theo dõi sau gây tê cơ vuông thắt lưng trong 24h, dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân ít có sự thay đổi, 10/40 bệnh nhân phải dùng phối hợp thêm các thuốc giảm đau perfalgan và voltarel chiếm tỷ lệ 25%, bệnh nhân phải dùng sớm nhất là sau 6 giờ, muộn nhất sau 23 giờ, không có bệnh nhân nào phải dùng đến liều thuốc giảm đau thứ 2 trong vòng 24 giờ đau sau mổ, không có bệnh nhân nào phải dùng đến morphin. Tác giả Marcin. M11 nghiên cứu tác dụng giảm đau sau mổ lấy thai khi gây tê cơ vuông thắt lưng bằng thuốc ropivacain 0,375%, từ khi bệnh nhân gây tê đến khi phải dùng liều morphin đầu tiên là 618,4 ± 128,21 phút 10,31± 2,14 giờ, thời gian giảm đau dài nhất là 990 phút 16,5 giờ, có 2 bệnh nhân phải dùng tới thuốc giảm đau sau khi gây tê 4-8 giờ. So sánh với tác giả Marcin. M11 thời gian giảm đau trong nhóm nghiên cứu kéo dài hơn, do trong nghiên cứu chúng tôi gây tê ở vị trí sau bên cơ vuông thắt lưng QL2 so với vị trí mặt trước của cơ vuông thắt lưng QL1 của tác giả. Theo Balanco4,5 gây tê cơ vuông thắt lưng phía sau bên cơ vuông thắt lưng QL2 thuốc tê lan vào khoang cạnh cột sống hơn gây tê QL1 phía trước của cơ vuông thắt lưng, do đó có tác dụng giảm đau dài và cũng có tác dụng giảm đau tạng. Trong nghiên cứu của tác giả có 11/28 bệnh nhân phải dùng morphin trong vòng 24 h đầu tiên sau gây tê chiếm tỷ lệ 33% so với của chúng tôi là 25%, tuy nhiên chúng tôi chỉ sử dụng perfalgan truyền tĩnh mạch và voltarel đặt hậu môn. Theo như Marcin. M6 mức độ sử dụng thuốc giảm đau morphin nhóm có gây tê cơ vuông thắt lưng giảm có ý nghĩa thống kê so với nhóm dùng thuốc giảm đau morphin thông thường. Ilana Sebbag và cộng sự8 khi nghiên cứu 3 ca bệnh có sử dụng gây tê cơ vuông thắt lưng phối hợp với acetaminophen 650mg và ketorolac 15mg để giảm đau sau mổ lấy thai thì thấy trong vòng 24h đầu sau mổ bệnh nhân không có nhu cầu dùng thêm thuốc giảm đau đau VASTrên biểu đồ 2, điểm đau VAS khi nghỉ ngơi và vận động cao nhất ở thời điểm T0 lần lượt là 1,25 và 4,07. Điểm đau VAS được đo trước khi gây tê, khi mà gây tê tủy sống đã gần hết tác dụng, bệnh nhân đã phục hồi được vận động co được đầu gối, cử động chân; đau vết mổ khi ho, hoặc nằm nghiêng, nên chúng ta thấy điểm VAS khi vận động cao hơn điểm VAS khi nghỉ. Điểm VAS thấp nhất ở thời điểm T1, ngay sau gây tê 1 giờ, sau đó tăng lên đến thời điểm sau gây tê 24 giờ nhưng bệnh nhân vẫn cảm thấy thoải mái. Điểm VAS vận động là 2,02, VAS nghỉ ngơi là 0,65. Trong nghiên cứu của Marcin. M6 điểm NRS thấp nhất ở thời điểm sau 2 giờ. Tuy nhiên trong nghiên cứu của tác giả chỉ đánh giá bằng điểm đau NRS khi nghỉ, không đánh giá điểm đau của bệnh nhân khi vận động. Nghiên cứu của Sebbag và cộng sự8 thì thấy điểm đau thấp trong vòng 24 giờ đầu sau độ hài lòng của người bệnhTỷ lệ hài lòng và rất hài lòng sau gây tê cơ vuông thắt lưng lần lượt là 42,5% và 57,5%. Nghiên cứu của Sebbag và cộng sự8 trên 3 bệnh nhân thì ca 3 bệnh nhân đều rất hài lòng. Bệnh nhân không có các triệu chứng ngứa, buồn nôn, nôn như khi áp dụng giảm đau sau mổ lấy thai có phối hợp thuốc tê và morphin để gây tê tủy sống. Bệnh nhân có thể thay đổi tư thế cho con bú, không phải dùng thuốc giảm đau họ morphin, do đó ít ảnh hưởng đến nuôi con bằng sữa mẹ. Một số bệnh nhân có thể vận động sớm sau 12 giờ để tránh các biến chứng sau mổ. Kết quả Phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên có tác dụng giảm đau sau mổ lấy thai. Thời gian giảm đau sau mổ lấy thai của phương pháp là 21,57 ± 5,07 giờ. Tỷ lệ hài lòng và rất hài lòng của người bệnh về phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng lần lượt là 42,5% và 57,5%. Phương pháp không ghi nhận các tác dụng phụ như buồn nôn, nôn, ngứa...Để biết thêm thông tin chi tiết, Quý khách hàng vui lòng liên hệ với các Bệnh viện và phòng khám thuộc hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Tài liệu tham khảo Anders Krohg, Kyrre Ullensvang, Leiv Arne Rosseland 2018. Quadratus lumborum block after ceasarean delivery A Randomized Clinical Trial. Anesthesia-Anagesia. Vol 126, No 2, p FW, Laffey JG, Halpern SH, et al 2013. Duration of analgesic effectiveness after the posterior and lateral transversus abdominis plane block techniques for transverse lower abdominal incisions a meta-analysis. Br J Anaesth. 111721-35;Blanco R 2007. TAP block under ultrasound guidance the description of a non pops technique’. Regional Anesthesia and Pain Medicine. 32p. R 2014. Optimal point of injection the quadratus lumborum type I and II blocks. Anaesthesia. R, Ansari T, Girgis E 2015. Quadratus lumborum block for postoperative pain after caesarean section a randomised controlled trial. Eur J Anaesth. 111; Rafael, Ansari 2016. Quadratus lumborum block versus Transversus abdominis plane block for postoperative pain after Cesarean Delivery A randomized controlled trial. Regional Anesthesia and Pain Medicine. 41 Ueshima, Hiroshi Otake 2017. Ultrasound-guided Quadratus Lumborum Block An Updated Review of Anatomy and Techniques. Hindawi, BioMed Research Intenatioal. Vol 2017, Article ID 2752876, Sebbag, Fatemah Qasem, Shalini Dhir 2016. Ultrasound guided quadratus lumborum block for analgesia after cesarean delivery case series. Rev Bras Anesthesiol. 674 NN, O’Neill S, Ventham NT, Barron F, Brady RR, Daniel T 2012. Clinical effectiveness of transversus abdominis plane TAP block in abdominal surgery a systematic review and meta-analysis. Colorectal Dis. 14 635–642Loane H, Preston R, Douglas MJ, et al 2012. A randomized controlled trial comparing intrathecal morphine with transversus abdominis plane block for post-cesarean delivery analgesia. Int J Obst Anesth. 21212-218;Marcin Mieszko Mieszkowski 2018. Evaluation of the effectiveness of the Quadratus Lumborum Block type I using ropivacaine on postoperative analgesia after a ceasarean section-a controlled clinical study. Via Medica, Ginekologia Polska. Vol 89, No 2, JG, Curley G, Carney J, et al 2008. The analgesic efficacy of transversus abdominis plane block after ceasarean delivery a randomized controlled trial. Anesth Analg. 106186-191Nguyễn Trung Kiên và cs 2019. Gây tê tủy sống trong mổ lấy thai bằng Bupivacain So sánh tính liều theo chiều cao và cân nặng với chiều cao đơn thuần. Tạp chí Y - Dược học Quân sự. 2019, 3, Thế Tùng 2008. Đánh giá tác dụng của gây tê tủy sống liều thấp kết hợp fentanyl trong mổ lấy thai. Luận văn thạc sĩ y học, Học viện Quân CM, Emerson S, Volgoropoulos D, et al 1999. Dose-response relationship of intrathecal morphine for postcesarean analgesia. Anesthesiology. 90437-44;Rathmell JP, Pino CA, Taylor R, et al 2003. Intrathecal morphine for postoperative analgesiaa randomized, controlled, dose-ranging study after hip and knee arthroplasty. Anesth Analg. 971452-1457. Công nghệ Plasma lạnh giúp nhanh liền vết thương sau sinh đẻ XEM THÊM Các phương pháp gây tê giảm đau khi sinh mổ hiện đang áp dụng tại bệnh viện Vinmec? Sau sinh mổ ăn khoai lang được không? Chăm sóc vết khâu tầng sinh môn sau sinh

quy trình gây tê tủy sống mổ lấy thai